Giới Thiệu Thủ Đô Hà Nội - trái tim của nước việt


Năm 1010, Hà Nội được vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô và đặt tên là Thăng Long với lòng mong muốn kinh thành ngày càng phồn thịnh như Rồng bay lên. Gần mười thế kỷ qua đã minh chứng quyết định ấy là sáng suốt. Thăng Long xưa và Hà Nội nay luôn luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá lớn của nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, có vị trí xứng đáng trong khu vực và trên thế giới.
       1.Tự nhiên và môi trường Hà Nội.     
Năm 1831 vua Minh Mạng triều Nguyễn đặt  lại tên cho Thăng Long là Hà Nội có nghĩa là: thành phố nằm trong vòng bao quanh của một con sông giữa đồng bằng Bắc Bộ trù phú. Nơi đây còn ghi biết bao dấu tích văn hiến của  mảnh đất từng là kinh đô trong suốt ba thời kỳ phong kiến thịnh trị Lý, Trần, Lê và ngày nay là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Khai quat ve Ha Noi
 Khởi nguồn hình thành của Thăng Long được quyết định bởi yếu tố môi trường tự nhiên, thể hiện trong “Chiếu dời đô” của vua Lý Công Uẩn.
Với tầm nhìn chiến lược, vị vua trẻ khi lên ngôi, đã cảm thấy kinh đô Hoa Lư trong vùng núi non hiểm trở  tuy dễ phòng thủ nhưng không thể là kinh đô của một nước cường thịnh cả về quân sự lẫn kinh tế. Người đã tìm được thành Đại La tức Hà Nội ngày nay, có thể hội tụ  những yêu cầu ấy. Trong "Chiếu dời đô", hình ảnh của một thành phố giàu đẹp hiện lên vô cùng sinh động: "Thành Đại La ở giữa bờ cõi đất nước, có thế rồng cuộn, hổ ngồi, bốn phía đông, tây, nam, bắc tiện hình thế núi, sông, sau, trước đất rộng, bằng phẳng, cao ráo, sáng sủa, dân cư không phải khổ vì ngập lụt, muôn vật phồn thịnh. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là nơi then chốt của bốn phương họp lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời...".
Khi thuyền nhà vua đến Đại La, Người nhìn thấy một con rồng bay lên trong đám mây, cho là điềm lành, bèn đặt tên là Thăng Long. Câu chuyện lịch sử pha lẫn huyền thoại này cho thấy thành Thăng Long được xây dựng ở một vị trí theo quan niệm phong thuỷ là lý tưởng cho phát triển đô thành vững mạnh, giàu có.
Sau gần 1000 năm, Hà Nội ngày nay và Thăng Long xưa khác nhau nhiều về địa lý, tự nhiên. Chỉ nói về phạm vi, thành Thăng Long xưa nằm giữa sông Nhĩ Hà và Tô Lịch; Hà Nội bây giờ bao gồm cả phần đất rộng lớn ở bên ngoài hai con sông. Trung tâm Thăng Long và trung tâm Hà Nội không trùng nhau. Nhưng những điểm ưu việt của điều kiện địa lý và tự nhiên của Thăng Long vẫn tạo ra những thế mạnh cho Hà Nội mà hiếm đâu sánh được.
Thứ nhất, thế đất bằng phẳng, cao ráo, nằm trên đồng bằng mầu mỡ, khí hậu lại ấm áp. Hà Nội là vùng sinh thái tuyệt vời cho con người định cư, phát triển
        Thứ hai, vị thế trung tâm của Hà Nội, lại nằm bên con sông lớn khiến cho giao thông với các địa phương khác dễ dàng, thuận tiện. Từ xưa, Hà Nội đã nổi tiếng là một trung tâm thương mại lớn: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến".
      Thêm nữa, với cảnh sắc tươi đẹp và con người thanh lịch, Hà Nội là đề tài cho thơ ca, nhạc, hoạ, tạo nên sức thu hút du khách bốn phương.
Và còn rất nhiều thế mạnh nữa do tự nhiên đem lại mà Hà Nội đã và sẽ khai thác để xứng đáng là "Nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời" như Lý Công Uẩn đã tiên đoán.
      Vị trí
     
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú. Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học lớn, đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam.

      • Vĩ độ bắc: 20o53' đến 21o23'
      • Kinh độ đông: 105o44' đến 106o02'
      • Giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam và Hoà Bình ở phía Nam;Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên ở phía Đông; Hoà Bình và Phú Thọ ở phía Tây.

        Địa hình


Hà Nội nằm ở trung tâm vùng đồng bằng Bắc Bộ. Địa hình cơ bản là đồng bằng. Trừ huyện Ba Vì có địa hình đồi núi, các huyện Sóc Sơn, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức , thành phố Sơn Tây và một phần huyện Đông Anh có địa hình gò đồi. Ở Hà Nội có nhiều điểm trũng. Việc đắp đê ngăn lũ sông Hồng từ cách đây hàng trăm năm dẫn tới việc các điểm trũng do sông Hồng không tiếp tục được phù sa bồi lấp và như vậy nền đất vẫn trũng cho đến tận ngày nay. còn ở Sóc Sơn vẫn còn những điểm trũng xen kẽ với gò đồi.
Hà Nội còn có nhiều ao, hồ, đầm là vết tích của con sông Hồng trước đây đã đi qua. Ở huyện Thanh Trì và Hoàng Mai có nhiều hồ lớn và nông, trong đó có hồ Linh Đàm và hồ Yên Sở. Do có nhiều ao hồ, nên có tên Thanh Trì. Trước khi đắp đê, sông Hồng hay đổi dòng chảy, khiến cho một số đoạn sông bị cắt riêng ra thành hồ lớn và sâu. Tiêu biểu cho loại hồ này là Hồ Tây. Hồ Hoàn Kiếm từng là một hồ rất rộng, nhưng thời thuộc Pháp đã bị lấp tới hơn một nửa. Các hồ Giảng Võ, hồ Ngọc Khánh, hồ Thủ Lệ trước kia thông nhau, nay bị lấp nhiều chỗ và bị chia cắt thành các hồ riêng biệt.
Ngoài các sông lớn như sông Hồng (đoạn đi qua Hà Nội gọi là Nhĩ Hà), sông Đà, sông Tích, sông Đáym còn có các sông nhỏ như sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, sông Nhuệ, v.v... Các sông này bị tình trạng lấn chiếm, đổ phế thải hai bên bờ, cũng như bùn đất theo nước thải chảy xuống làm cho hẹp lại và nông. Hiện Hà Nội đang thực hiện các dự án "xanh hóa" các con sông của mình với các biện pháp như kè bờ, nạo vét, xây dựng hệ thống lọc nước thải trước khi đổ xuống sông. Có con sông đã mất hẳn, như sông Ngọc Hà từng chảy qua Hoàng Thành.
       Khí hậu    
  Khí hậu Hà Nội là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít.
       Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời  dồi dào và có nhiệt độ cao. Do chịu ảnh hưởng của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn.
       • Trung bình hằng năm, nhiệt độ không khí 23,6oC, độ ẩm 79%, lượng mưa 1245 mm
      • Mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Hà Nội có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Sự luân chuyển của các mùa làm cho khí hậu Hà Nội thêm phong phú, đa dạng và có những nét riêng.
       • Từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa hè: nóng và thi thoảng có mưa rào.
       • Từ tháng 9 đến tháng 11 là mùa thu. Thời tiết khô ráo, trời cao, xanh ngắt, gió mát, nắng vàng.
       • Từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau là mùa đông: Thời tiết lạnh, khô ráo.
       • Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa xuân: Cây cối xanh tốt với hàng ngàn loài hoa khoe sắc,  mùa của những lễ hội truyền thống độc đáo, mở đầu là Tết nguyên đán, lễ hội lớn và quan trọng nhất của người Việt Nam. 
Khai quat ve Ha Noi• Nhiệt độ thấp nhất là 2,70C (tháng 1/1955). 
• Nhiệt độ cao nhất: 42,80C(tháng 5/1926).
Khách du lịch có thể tới thăm Hà Nội quanh năm. Tuy nhiên, mùa xuân, mùa thu và mùa đông rất thích hợp với du khách ở những vùng hàn đới.

     Thực vật và động vật
Các loại thực vật tự nhiên chỉ còn dạng thứ sinh, tập trung trong huyện Sóc Sơn. Ở đây còn khoảng hơn 6.700 ha đất lâm nghiệp đang được gấp rút trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc để khôi phục thảm thực vật, bảo vệ môi sinh. Do có rừng, gần đây đã thấy xuất hiện trở lại nhiều loại chim ăn ngũ cốc, các loài gậm nhấm và thú rừng (lợn rừng, chồn, sóc, trăn, rắn...) vốn trước kia có rất nhiều.

Giới động vật còn tương đối phong phú là động vật dưới nước như cá, tôm, cua, ốc, kể cả cá trong đồng và ngoài sôngHà Nội là vùng đất trù phú, có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời, đã cung cấp nhiều giống cây trồng, vật nuôi quí, có giá trị kinh tế và nổi tiếng trong cả nước.

Đáng chú ý là các huyện ngoại thành đã hình thành các vành đai rau xanh, thực phẩm tươi sống (thịt, cá, sữa, trứng) phục vụ nhu cầu đô thị hoá ngày một cao của thủ đô Hà Nội và dành một phần để xuất khẩu.

 
     Cây xanh Hà Nội
Một trong nhiều lý do để du khách yêu mến các thành phố của Việt Nam, đặc biệt ở Hà Nội là những tán lá xanh mướt, những con đường rợp bóng cây. Còn vào mùa hè, cây cối ở đây khoác lên mình một tấm áo rực rỡ sắc màu. 
Từ thế kỷ XIX,  các giống cây này được đưa về từ khắp nơi trên thế giới, trồng dọc theo những con phố làm dịu đi ánh nắng chói chang của mặt trời nhiệt đới. Nhiều cây còn tồn tại cho đến ngày nay có kích thước khá lớn.

Khai quat ve Ha Noi
Một trong những loài cây trồng nhiều nhất là phượng vĩ đơm hoa rực đỏ mỗi khi hè về. Trước cửa toà báo "Hà Nội mới" có một cây phượng lớn, cành cây vươn về phía hồ như những ngón tay thon đang chơi đùa với đàn cá tung tăng dưới nước.
Cây vông hoa vàng rực rỡ trồng trước cổng đền Ngọc Sơn.
Trước cửa hàng kem Bốn Mùa phía bờ tây hồ Hoàn Kiếm, những cây me cũng nở ra những đoá hoa nhỏ li ti màu vàng nhạt. Lá cây nhỏ, có màu xanh mát. Quả me có vỏ màu nâu bao quanh lớp thịt vừa ngọt vừa chua với những hạt nhỏ, đen nhánh.
Cây lộc vừng ngả bóng bên hồ Hoàn Kiếm, đầu mùa đông có những dây hoa đỏ mảnh mai buông xõa đung đưa trong gió. 
Dọc theo phố Hàng Trống, bạn sẽ gặp cây gụ có hoa màu vàng xanh, nở thành từng chùm. Những bông hoa nhỏ hình sao ấy khi rơi xuống tạo cho người ta cái cảm giác như đang đứng dưới một trời hoa.
Dọc theo phố Đội Cấn và Thợ Nhuộm là hàng bằng lăng, cuối mùa xuân đến đầu mùa hè khoác lên mình những đoá hoa tím biếc nổi bật trên nền xanh của lá. Mùa đông, những cây bằng lăng cũng tự trang điểm cho mình từng chùm quả lủng lẳng nơi đầu cành.
Trong khu phố cổ Hà Nội có rất nhiều dâu da xoan với chùm hoa màu sữa. Những hàng cây nhỏ phù hợp với khung cảnh nơi này đến nỗi các hoạ sỹ luôn luôn đưa chúng vào trong tranh vẽ phố cổ.
Những cây bàng có hoa nhỏ li ti màu xanh nhạt, bám dọc thành một cụm nhỏ. Lá bàng lớn, thuôn dài, có màu xanh đậm, toả bóng mát dịu giữa trưa hè. Đến tháng chín, lá cây chuyển sang màu vàng và đỏ để cuối cùng rực đỏ vào mùa thu. Đây là một trong số ít các loài cây ở Hà Nội đổi màu lá theo mùa vào dịp cuối năm.
Xà cừ là một trong những cây cao nhất ở Hà Nội, được lấy giống về từ châu Phi nên rất hợp với khí hậu nóng khô.
Người Hà Nội khi đi xa luôn gắn liền với những kỷ niệm về hoa sữa. Tháng mười, những đoá hoa màu trắng xanh toả hương nồng nàn trên các dãy phố như Quang Trung, Nguyễn Du.

Thậm chí cả đến những cây non cũng trổ hoa màu cam nho nhỏ.

Mỗi mùa có một niềm vui riêng. Mùa hè ở Hà Nội có thể khá oi ả nhưng vẻ đẹp của những hàng cây xanh mát cũng đủ làm dịu đi cái nắng gắt gao.
Trên đây chỉ là một vài loại cây đặc trưng cho Hà Nội. Ngoài ra còn có hàng trăm loại cây và hoa khác nhau góp phần tạo nên một Hà Nội xanh nên thơ trong con mắt khách thăm.

    2. Những nét chính về dân cư, hành chính, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội Hà Nội.

      Dân cư
 Số dân là: 6.1 triệu người
     Mật độ dân số
Dân cư Hà Nội phân bố không đều giữa các lãnh thổ hành chính và giữa các vùng sinh thái. Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 2881 người/km2 (mật độ trung bình ở nội thành 19163 người/km2, riêng quận Hoàn Kiếm là 37265 người/km2, ở ngoại thành 1721 người/km2). Mật độ này cao gấp gần 12 lần so với mức trung bình của cả nước, gần gấp đôi mật độ dân số của vùng đồng bằng sông Hồng và là thành phố có mật độ cao nhất cả nước.    
Khai quat ve Ha Noi
     Nguồn gốc dân cư
Hà Nội nếu tính từ thế kỷ thứ V tới nay là hơn ngàn rưỡi năm. Nhưng hỏi liệu bao nhiêu gia đình có từ ngày đó và tồn tại đến nay ở Hà Nội thì khó trả lời được.
Những làng ngoại thành và ven đô cũ (nay phần lớn đã nằm trong nội thành) thuộc những phường nông nghiệp thì dân cư ít xáo trộn có nhiều gia đình còn giữ được gia phả ngược lên đến tận các thế kỷ XV, XVI.

Khai quat ve Ha Noi
Chẳng hạn như ở làng Trung Tự, vốn thuộc phường Đông Tác xưa, nay là phường Trung Tự, quận Đống Đa có họ Nguyễn (của những học giả Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hữu Kha... ) còn giữ gia phả cho biết là gốc từ Gia Miễu - Thanh Hóa ra cư trú từ thời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) và đến nay, trẻ nhất là thế hệ họ Phạm ở Đông Ngạc (Vẽ) huyện Từ Liêm, một gia tộc lớn với những chi Phạm Gia, Phạm Quang có nhiều danh nhân, bác học, gia phả cũng ghi gốc là làng Đông Biện - Thanh Hóa ra cư trú tại đây từ cuối thế ký XIV, đầu thế kỷ XV.      
Hoặc ở làng Vân Điềm (Đông Anh) có họ Nguyễn đã sản sinh ra các bậc đại nho Nguyễn Án, Nguyễn Tư Giản và nhà viết tiểu thuyết lịch sử tài danh Nguyễn Triệu Luật thì coi cụ Nguyễn Thực (1555 - 1637) là tổ thứ nhất và nay trẻ nhất là đời thứ 16. (Gia phả còn cho  biết đây chính là dòng dõi nhà Lý bị nhà Trần đổi ra họ Nguyễn, có điều là thời gian quá xa nên không rõ tên họ các cụ tổ họ Lý). Đó là trường hợp ít biến động dân cư.
Còn các khu vực vốn là những phường thương nghiệp và thủ công ở ven cửa sông Hồng và ven sông Tô (nay là khu các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng) thì dân cư xáo trộn nhiều.
Người buôn bán và người làm hàng thường ít khi trụ nhiều đời ở một địa điểm.
Ngạn ngữ có câu: "Ai giàu ba họ ai khó ba đời!". Việc hưng thịnh hay sa sút trong kinh doanh không phải là hiếm. Không kể nhiều trường hợp con em các gia đình ở khu vực này thi đõ, đi làm quan tỉnh xa rồi cư ngụ luôn ở đấy, đôi khi kéo theo cả họ hàng. Ngoài ra, luồng nhập cư vào Thăng Long làm ăn diễn ra thường xuyên. 
Ngay từ thế kỷ XV, dân các trấn về Thăng Long đông quá khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả về nguyên quán. Nhưng khi biết rằng chính họ là nguồn cung nạp thuế quan trọng và làm ra nhiều sản phẩm cần thiết, cuối cùng vua chỉ đuổi bọn du thủ du thực vô nghề nghiệp khỏi kinh thành.        
Trong sách Thượng Kinh phong vật phú thế kỷ XVIII đã ghi: "Khách bốn phương, những người thực nơi thượng kinh đua nhau đến ở quanh cả kinh đô, không lúc nào ngớt, đều cố nhanh chân rảo bước mà đến như tranh đến kinh đô nước Yên xưa".
Có thể nêu một ví dụ: ở ngõ Phất Lộc thuộc quận Hoàn Kiếm có nhà thờ họ Bùi Huy là một họ lớn nổi lên ở Thăng Long từ thế kỷ XVll và tới nay vẫn có nhiều thành viên thành đạt cả trong và ngoài nước. Họ này vốn không phải gốc ở đây. Và tên Phất Lộc cũng không phải là tên gốc của ngõ đó. Đây vốn là ngõ Phúc Lộc, thuộc huyện Thọ Xương.
Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVll, có một ông họ Bùi quê làng Phất Lộc thuộc huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình lên Thăng Long ngụ ở ngõ Phúc Lộc. Con cháu ông phát đạt, người làm quan, người buôn bán giàu có mua phần lớn đất thổ cư trong ngõ. Sau đó, người làng Phất Lộc - Thái Bình cũng theo gương ấy kéo ra cư ngụ, do vậy hầu hết đất ngõ thuộc về người Phất Lộc, nên đến một lúc nào đó được gọi là ngõ Phất Lộc.
Nếu tính từ ông cụ họ Bùi lên Thăng Long đến nay thì trẻ nhất là đời thứ mười (Gia phả còn ghi được tám đời trước đó ở Phất Lộc - Thái Bình).
Hay như họ Đỗ Đức vốn ở phường Thịnh Quang (nay vẫn mang tên này, thuộc quận Đống Đa, sau có một chi đi vào làng Hạ Đình, thuộc xã Nhân Mục, nay thuộc quận Thanh Xuân), thì gia phả ghi cụ tổ thứ nhất có thể là ở Lạc Đạo (Hưng Yên) chuyển sang Thịnh Quang từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVll.
Trong thực tế lịch sử, lại còn một số nguồn cư dân khác gia nhập vào cộng đồng Thăng Long - Hà Nội. Đó là những người nước ngoài đến lập nghiệp ở nơi đây. Phần lớn là người Hoa.
Không kể những người Hoa ở lại từ thời Bắc thuộc. Chỉ kể những người Hoa được phép sinh sống ở Thăng Long trải qua các triều Lý - Trần - Lê thì sử cũ còn ghi, năm 1274 có 30 thuyền người Hoa xin nhập tịch nước ta, được phép cư ngụ ở Thăng Long. Trong “Dư Địa Chí” của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) có chép là trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có hẳn một phường người Hoa. Đó là phường Đường Nhân.
Thời cổ có lúc cả thế giới gọi người Hoa là người nhà Đường. Phường đó tương ứng khu vực phố Hàng Ngang và lân cận. Khoảng thế kỷ XVII người Hoa chỉ được phép ở phố Hiến (Hưng Yên). Sang thế kỷ XVll họ được lên Thăng Long. Hẳn là đông đúc nên có lúc họ xin chính quyền thành Thăng Long cho đứng ra tu bổ xây kè dọc bờ sông Hồng từ bến Hàng Mắm đến tận bến Tây Long (Nhà Hát Lớn ngày nay). Thuở đó sông Hồng chảy sát chân đê, tức chân đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải bây giờ.
Suốt quá trình nhập cư đó có rất nhiều gia đình người Hoa đã Việt hóa (nhập tịch  trang phục như người Việt, đàn bà cũng vấn khăn, nhuộm răng, ăn trầu...). Ngoài người Hoa, còn có người Chăm từ phương nam ra trong nhiều trường hợp khác nhau.
Những người tự nguyện không ít, như sử đã ghi : Năm 1039, một hoàng tử con vua Chăm đã cùng năm gia tộc vượt biển ra Thăng Long quy phục nhà Lý; năm 1390, lại có hai hoàng tử làm như vậy đối với nhà Trần, và năm 1448 có một quý tộc Chăm là Phan Mỗ đem bà con họ hàng làng xóm tất cả 340 người sang quy phục nhà Lê.
Các làng ở Hà Nội trong tên gọi có chữ Sở phần lớn là các sở đồn điền dành cho người Chăm như Vĩnh Tuy Sở, Thịnh Quang Sở, Xuân Tảo Sở, Quán La Sở...
Đặc biệt có làng Phú Gia (quận Tây Hồ) có hai họ Bố và Ông là gốc Chăm (mãi tới đời Tự Đức khoảng 1848 - 1850, một viên quan huyện hách dịch không muốn dân xưng “bố” và “ông” với quan nên bắt đổi Bố ra Hi và Ông ra Công). Nay hai họ này vẫn là cư dân chính làng Phú Gia.  Sách “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” có nêu ông Phương Đinh Pháp, một vị quan can đảm thời vua Lê Cảnh Hưng, đã ngăn không cho Bắc Binh Vương Nguyễn Huệ đeo gươm đi lên chính điện gặp vua, ông Pháp là người Quán La Sở và gốc Chăm. Hay bà Phan Ngọc Đô, một phi tần được Lê Thánh Tông đưa ra Thăng Long, cho ở tại trang Thiên Niên (nay là Trích Sài, phường Bưởi, quận Tây Hồ). Bà đã dạy cho dân vùng này dệt lĩnh, là một mặt hàng lụa rất mỏng, mịn, mặc mát, nhuộm thâm.
Luồng nhập cư liên tục và mạnh mẽ vậy nên cư dân tất phải xáo trộn. Có điều là đã có bao nhiêu thế hệ "tử chiếng" ấy kéo về Thăng Long sinh cơ lập nghiệp, lập ra các phố phường trải qua chiều dài của hàng chục thế kỷ. Tất nhiên, bấy nhiêu thế hệ đã đem đến Thăng Long - Hà Nội những lề thói của địa phương mình, song chung đúc lại, chắt lọc ra, hòa với người Thăng Long bản địa tạo nên cái chất "kinh kỳ" mà thực chất là lối sống có văn hóa (nhiều người gọi đó là tính cách thanh lịch Tràng An).
Nói cách khác, các thế hệ nhập cư Thăng Long đã tự điều chỉnh, tự hoàn chỉnh nhân cách, nâng cao lên cho hợp với điều kiện và môi trường kinh đô. Họ tồn tại được còn do là kết quả của quá trình hòa hợp, dung hội lâu dài. Tuy không thuần khiết như làng quê vì là tứ trấn quần cư nhưng cũng đã hình thành khá nhiều những cộng đồng mới: hàng phố, bạn phường...

     Các đơn vị hành chính Hà Nội

Hà Nội tính tới nay gồm các quận: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai và huyện: Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Thạch Thất, Quốc Oai,Phú Xuyên, Thường Tín, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Ứng Hoà, Thanh Oai, Mê Linh và thành phố Hà Đông, thành phố Sơn Tây.
Diện tích tự nhiên của Hà Nội là: 92.180,46 ha.
Dân số: 6.1 triệu người
HN.jpg
       
 Hà Nội, đầu não chính trị của nước Việt Nam

Hà Nội - mảnh đất có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy chiến công đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ Việt Nam tự hào là trung tâm đầu não chính trị của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á với bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9-1945, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình.
Là trái tim đất nước, Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội.
Khai quat ve Ha Noi
Thủ đô cũng là nơi diễn ra các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đại sứ quán của nhiều quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác được tiến hành tại đây. 
   
Người Hà Nội còn giữ mãi hình ảnh những ngày hoạt động tưng bừng và sôi động; những cuộc đón tiếp anh em bầu bạn từ bốn phương xa đến với Việt Nam. Hà Nội tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn mà Việt Nam đăng cai như Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp, Hội nghị cấp cao các nước ASEAN...
Đã có nhiều nhà báo, nhà văn, nhà nhiếp ảnh... nước ngoài đến với Hà Nội. Ấn tượng tốt đẹp về một "Thủ đô phẩm giá của con người", một "Thành phố vì hòa bình" đã lấp lánh trong những tác phẩm của họ.
 
     Kinh tế

Tính đến năm 2002, GDP Hà nội đạt 20.280 tỷ đồng chiếm 7,8% tổng sản phẩm nội của cả nước với tốc độ tăng trưởng 10,37% so với năm 2001. Trong đó tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 2,4%; ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 38,8% và ngành dịch vụ chiếm 58,8%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế những năm 2000-2002 của Hà Nội đều tăng hơn 10% mỗi năm.
Khai quat ve Ha Noi
    Văn hoá

Tất cả các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản cấp quốc gia đều đóng tại Hà Nội. Tin tức của mọi vùng lãnh thổ trên đất nước cũng được phát ra từ đây trên sóng phát thanh và truyền hình. Hàng trăm tờ báo và tạp chí, hàng chục đầu sách mới của gần 40 nhà xuất bản trung ương phát hành khắp nơi, ra cả nước ngoài, làm phong phú đời sống văn hóa của nhân dân và giới thiệu hình ảnh Việt Nam với bạn bè thế giới.
Khai quat ve Ha Noi
Hà Nội có riêng một Đài phát thanh và Truyền hình Hà Nội, một tờ báo hàng ngày là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thủ đô: tờ "Hà Nội mới", một tờ báo của Ủy ban nhân dân thành phố: tờ “Kinh tế đô thị Hà Nội”, bảy tờ tuần báo hoặc ra tuần nhiều kỳ của các ngành, các đoàn thể, một tạp chí, hàng chục bản tin chuyên đề. Nhà xuất bản Hà Nội mỗi năm ra hàng trăm đầu sách, mà sách về đề tài Hà Nội chiếm tỷ trọng hàng đầu.
Đi trên đường phố thủ đô, ta thường bắt gặp các khuôn mặt quen thuộc của nhiều văn nghệ sĩ và nhà khoa học danh tiếng. Trụ sở trung ương các hội văn học - nghệ thuật, các hội khoa học - kỹ thuật, các xưởng phim, nhà hát quốc gia của các bộ môn nghệ thuật đều đóng ở thủ đô.
Khai quat ve Ha Noi
Về số lượng nhà bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ, rạp hát, chiếu bóng, hiệu sách,... di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc và cách mạng, Hà Nội đứng hàng đầu, 521 trong số hơn 2000 di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận xếp hạng.
Bên cạnh các nhà hát nghệ thuật quốc gia, riêng Hà Nội có sáu nhà hát và đoàn nghệ thuật. Vốn nghệ thuật dân gian truyền thống được quan tâm bảo tồn và phát huy. Đoàn múa rối nước Thăng Long không chỉ sáng đèn hằng đêm ở nhà hát bên Hồ Hoàn Kiếm mà còn đi lưu diễn nhiều lần ở các châu lục.

Câu lạc bộ chèo truyền thống Nguyễn Đình Chiểu vẫn thường xuyên trình diễn các trích đoạn chèo cổ của ông cha để lại. Vở Kiều của Nhà hát cải lương Hà Nội đã có hơn 2000 đêm diễn. Nhà hát kịch Hà Nội, Nhà hát ca múa Thăng Long là những đơn vị nghệ thuật có hạng của cả nước với tuổi đời hơn 40 năm. Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội với chín hội thành viên, gần 2000 hội viên.
Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa mới.
    Giáo dục và đào tạo
Nếu như cách đây gần 1000 năm, Thăng Long đã có Văn Miếu-Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta, thì nay Hà Nội là nơi tập trung 44 trường đại học và cao đẳng của đất nước, với hơn 330 nghìn học sinh - sinh viên. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tất cả các trường ở Việt Nam đều dùng tiếng Việt.
Khai quat ve Ha Noi
Bên cạnh đó là 25 trường trung học chuyên nghiệp với 15 nghìn học viên, tăng gấp 13 lần năm học sau giải phóng. Tính bình quân cứ 3 người Hà Nội có một người đang đi học. Nhiều học sinh Hà Nội đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế.
Hà Nội còn là địa phương đầu tiên trong cả nước được công nhận phổ cập xong cấp trung học cơ sở, có một số trường đặc biệt dạy trẻ em khuyết tật.
     
    Khoa học
Với hơn một trăm viện nghiên cứu ở hai trung tâm Khoa học tự nhiên  và Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, ở các học viện và các bộ, các ngành, Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài của đất nước. Phần lớn các chuyên gia đầu ngành đang công tác, nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở thủ đô. Có thể nói đây là một nguồn tài nguyên quý giá, một lợi thế nhất trong cả nước về nhu cầu hợp tác khoa học kỹ thuật với các nước và các địa phương khác trong nước.
Hằng năm, Hà Nội tổ chức một số lượng lớn hội thảo, hội nghị với các tổ chức quốc tế song phương và đa phương.
Phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia đều được thực hiện và bảo vệ đề tài tại Hà Nội.
Hà Nội cũng là nơi đào tạo nhân tài cho cả nước. Đã có biết bao nhiêu cử nhân, tiến sĩ, giáo sư... trưởng thành từ đây, đang có mặt ở khắp mọi miền của Tổ quốc, phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; góp sức làm cho nước mạnh dân giàu, nâng cao dân trí cho xã hội.
Mảnh đất này tự hào là cái nôi rèn luyện và tạo dựng các thế hệ trí thức của thời đại mới. Các thế hệ danh nhân đó đã bồi đắp trở lại cho Hà Nội ngày càng thực sự tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam.
    Thể thao
Hà Nội là một trong hai lò huấn luyện tài năng thể thao lớn của đất nước. Một sân vận động hoàn chỉnh cấp quốc gia, một nhà thi đấu khang trang và hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập, Trường Thể dục Thể thao thiếu niên 10-10...làm cơ sở cho các vận động viên rèn luyện. Gần 200 vận động viên được phong cấp kiện tướng quốc gia đem về cho thủ đô 60 huy chương thi đấu quốc tế. Sân vận động quốc gia Mỹ Đình ở Hà Nội đã hoàn thành, là nơi khai mạc và diễn ra những trận đấu trong SEA GAMES 22 tổ chức tại Việt Nam cuối năm 2003.
Khai quat ve Ha Noi
    Y tế

Để bảo vệ sức khỏe nhân dân, y tế Hà Nội không ngừng phát triển và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật hiện đại kết hợp với nền y học cổ truyền trong chữa trị, chủ động phòng bệnh và loai bỏ các bệnh xã hội. So với năm 1954, số bệnh viện tăng hơn bốn lần, số y, bác sỹ, y tá tăng 27 lần.
Khai quat ve Ha Noi
Giới Thiệu Thủ Đô Hà Nội - trái tim của nước việt Giới Thiệu Thủ Đô Hà Nội - trái tim của nước việt Reviewed by mp3aid on 6:03 AM Rating: 5

No comments:

Powered by Blogger.